Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

ĐỊA CHỈ CHỮA BỆNH TIN CẬY CHO NGƯỜI BỊ VIÊM DA




NIỀM VUI ĐÃ TRỞ LẠI VỚI GIA ĐÌNH TÔI!

Các cụ nhà ta có câu mà đến bây giờ tôi vẫn thấy thấm thía “dao sắc không gọt được chuôi”.Tôi là bác sĩ công tác tại một bệnh viện Trung ương lớn tại Hà Nội, thế nhưng vị trí đó cũng đã không giúp được vợ con tôi thoát khỏi bệnh viêm da cơ địa mà tôi có dịp kể với quý vị sau đây
.Một chiều cuối thu năm 2005 vợ tôi về nhà sớm hơn thường lệ,tôi cứ nghĩ là công việc cơ quan nhàn nhã nên vợ xin vợ sớm để dọn dẹp nhà cửa,tôi đem thắc mắc ấy hỏi vợ thì vợ tôi nhăn nhó trả lời:em bị đau rát đầu ngón tay không thể gõ bàn phím máy tính được,tôi liếc nhanh xuống đôi bàn tay vợ thì thấy một vài vết nứt nhỏ ở đầu ngón tay,da bàn tay có biểu hiện thô ráp,bản năng nghề nghiệp đã cho tôi những phán đoán ban đầu đó là những triệu chứng của viêm da mà cụ thể hơn là viêm da cơ địa.Tôi động viên vợ không phải lo lắng gì cứ yên tâm nhưng trong lòng tôi thì dấy nên một sự bất ổn bởi là người trong ngành tôi biết đây là một bệnh mãn tính không thể chữa khỏi hoàn toàn mà nhiều khả năng lại còn di truyền cho thế hệ sau.Tôi cẩn thận dặn vợ phải kiêng không được tiếp xúc với hóa chất tẩy rửa nhất là dung dịch cọ nhà vệ sinh và xà phòng,bất cứ khi nào tiếp xúc vơi nước phải sử dụng gang tay và khuyên vợ chưa nên bôi bất cứ một loại kem gì khi chưa biết chắc chắn đó là bệnh gì để sáng mai tôi sẽ đưa đi khám rồi mới có phương pháp điều trị thích hợp.
Sáng hôm sau có mặt tại Bệnh viện Da liễu Quốc gia anh bạn học cùng trường Y ngày nào đã đón tôi ở cổng.Sau khi khám và làm các xét nghiệm lâm sàng bác sĩ kết luận vợ tôi đã bị viêm da cơ địa ở thể cấp tính.Tuy mới ở thể nhẹ nhất trong ba thể cấp tính,bán cấp và mãn tính nhưng bác sĩ cũng hết sức lo lắng vì bệnh này có tỉ lệ nhiễm cực kì cao tại Việt Nam (gần 20% dân số)mà việc điều trị bằng các phương pháp hiện nay mới chỉ dừng ở góc độ duy trì tình trạng bệnh, cố gắng hạn chế tối đa sự phát triển của thể bệnh.Nhìn ánh mắt lo lắng của vị bác sĩ tôi đã thấy được viễn cảnh tương lai khi vợ tôi mắc phải căn bệnh này:công việc sinh hoạt sẽ cực kì khó khăn,mọi việc tiếp xúc với nước phải hạn chế tối đa nhất là trong các mùa thu và mùa đông của miền Bắc,rồi chưa kể nó sẽ lan ra các vùng da khác gây ngứa và đau đớn nữa.
Sau khi mua thuốc theo đơn của bác sĩ về tôi đã theo dõi rất kĩ lộ trình điều trị hằng ngày bôi kem corticoid và uống kháng sinh liều cao giúp da mềm và tránh bội nhiễm.Trong công việc hàng ngày tránh hoàn toàn việc chà xát, không gãi ở đầu ngón tay mặc dù rất ngứa và xuất hiện những mụn nước nhỏ li ti,chế độ ăn uống giàu vitamin và rau xanh hoa quả nhằm giảm tối đa tác dụng phụ của kháng sinh liều cao và giúp cơ thể tăng cường sức đề kháng với sự phát triển của bệnh.Nhưng cũng như tôi phán đoán việc điều trị chỉ giúp cho tình trạng bệnh phát triển chậm,mùa đông đến cơn đau rát và ngứa xuất hiện ngày càng dày đặc hơn đến nỗi vợ tôi không thể sử dụng được bàn phím máy tính,mọi công việc trong nhà đều do người giúp việc đảm nhận hết.Tôi động viên vợ sống chung với căn bệnh này vì y học hiện đã bó tay, vợ tôi cũng nhận thức được và cố gắng duy trì sinh hoạt thường ngày một cách khoa học nhất.
Rồi niềm vui đến với chúng tôi khi cháu trai đầu lòng chào đời,gia đình nhỏ giờ có thêm tiếng bi bô của trẻ nhỏ trở lên ấm áp hơn.Niềm vui cũng không được bao lâu khi điều tôi lo sợ nhất cũng đã đến,lúc cu Tít được gần hai tuổi tôi thấy trên chán con xuất hiện những mảng màu đỏ hơi mờ,linh tính nghề nghiệp mách bảo cho tôi biết rằng con trai mình đã bị di truyền căn bệnh từ Mẹ vì tôi biết 80% trẻ em bị bệnh này xuất phát từ yếu tố di truyền.Hai vợ chồng tất bật đưa con đi khám thì cũng được bác sĩ kết luận viêm da cơ địa.Không khí nặng nề bao trùm gia đình tôi,chưa bao giờ tôi thấy bất lực như lúc này,vợ tôi trong thời gian sinh em bé đã không thể sinh hoạt theo đúng liệu trình dẫn đến tình trạng bệnh lan sang vùng gập của khuỷu tay,độ dày của da cứ tăng dần lên do quá trình ngứa rồi gãi,gãi rồi ngứa lại càng gãi.Nhưng điều làm cho tôi đau lòng hơn là cậu con trai,với người lớn dù cho có đau nhưng vẫn cố chịu được nhưng với trẻ nhỏ thì làm sao các cháu biết mà chịu đựng,có những đêm tôi thức trắng vì cu Tít khóc suốt đem vì đau rát,những vết đỏ ngày càng lan rộng ra mà không thể kiểm soát được.Thói đời dao sắc không gọt được chuôi giờ tôi mới thấy thấm thía,nhìn vợ con trong tình cảnh đó tôi như đứt từng khúc ruột nhưng oái oăm đó là sự bất lực không có lối thoát.
Tháng 8 năm 2007 tôi tham dự một buổi hội thảo do Hội da liễu đông y tổ chức,suốt buổi hội thảo tôi chăm chú lắng nghe các bác sĩ đông y trình bày tham luận trong đó tôi đặc biệt quan tâm tới bài phát biểu của lương y nhân dân Lâm Tuệ Phương – phó chủ tịch hội đồng sáng lập Hội Da liễu Đông y Việt Nam về các bệnh viêm da trong đó có bênh viêm da cơ địa mà hiện vợ và con tôi đang mắc phải.Vị lương y đã cung cấp cho tôi một số thông tin khá hữu ích dưới góc độ đông y.Cuối buổi hội thảo tôi tiếp cận lương y Lâm Tuệ Phương để hỏi một số vấn đề liên quan đến căn bệnh của vợ và con tôi.Lương y cho biết với y học cổ truyền thì hiện tại điều trị bằng hai phương pháp điều trị bên ngoài và điều trị bên trong
Điều trị bên ngoài:Giúp kháng viêm và tái tạo thể da bị bệnh,các thể da sẽ khô lại và hoàn nguyên về trạng thái ban đầu chưa bị bệnh.
Điều trị bên trong:Tăng cường công năng khử độc của gan,và thải độc của thận,tăng cường sức đề kháng giúp phòng ngừa sự xuất hiện của thể bệnh mới.
Ưu điểm của đông y là ít tác dụng phụ và lành tính.(sử dụng thuốc kháng sinh tây y dài ngày sẽ ảnh hưởng đến dạ dày,gan và tụy,các kem bôi ngoài da dẫn đến tình trạng nhờn thuốc càng ngày liều lượng và số lần bôi ngày càng phải tăng lên)
Khi nghe vị lương y nói tôi có thêm niềm tin vào việc chữa khỏi căn bệnh này.
Về nhà tôi đưa cả vợ  và con đến tận nhà Lương y để điều trị,quá trình điều trị được gần một tháng vừa bôi vừa uống các triệu chứng của vợ và con tôi tốt lên từng ngày,ngứa giảm hẳn và các vết nứt  được tái tạo làn da mới,các mụn nước tự bong chợt và se lại cảm giác đau rát không còn nữa.Điều trị khoảng một tháng rưỡi thì những dấu hiệu của bệnh của vợ và con hoàn toàn biến mất.Tôi mừng lắm,là người trong ngành và theo như Lương y nói  đã là bệnh mãn tính thì nó liên quan đến yếu tố cơ địa nên tôi biết bệnh có thể tái phát bất cứ lúc nào nhưng trong lòng tôi vẫn vui lắm,bởi trải qua rất nhiều phương pháp chữa trị của y học hiện đại tình trạng bệnh đã không thuyên giảm lại còn tăng lên nay sử dụng phương pháp của Lương y bệnh đã khỏi thì kể cả sau nay có bị lại cũng đã có thuốc chữa vừa hiệu quả vừa lành tính.Sau khi điều trị dứt điểm căn bênh này tôi đã tự thưởng cho gia đình một chuyến du lịch Cát Bà, nhìn vợ con tôi tung tăng đùa vui dưới làn nước biển trong xanh tôi biết niềm vui đã trở lại với gia đình tôi.
Là người làm khoa học nên với tôi mọi việc phải có sự kiểm nghiệm trước khi công bố nên tôi để xem thời gian khỏi bênh có được lâu không để chiêm nghiệm phương pháp của Lương y đồng thời sẽ chia sẻ với mọi người.Thời gian cũng đã ba năm mà căn bệnh của vợ con tôi chưa tái phát tôi tự tin chia sẻ bài học này với mọi người giúp cho nhiều gia đình có thêm niềm vui như gia đình tôi.Bạn nào đang ở trong tình trạng bệnh này có thể liên lạc trực tiếp với Lương y nhân dân Lâm Tuệ Phương – phó chủ tịch hội đồng sáng lập Hội Da liễu Đông y Việt Nam theo số điện thoại 0936145657 Nhà Lương y ở 658 đường Láng – Đống Đa – Hà Nội.Chúc quý vị sức khỏe và hạnh phúc.

                                                          Theo Y tế và Cộng đồng

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BỆNH VIÊM DA THẦN KINH



Hỏi: Tôi bị một căn bệnh rất phiền toái, không biết có phải hắc lào hay bệnh gì mà chỗ khuỷu tay rất ngứa, không lây, không loang lở, chỉ có mụn đỏ ở trong da đã gần hai năm nay. Tôi đã dùng đủ loại thuốc mỡ bôi nhưng không thấy đỡ. Xin hỏi tôi bị bệnh gì? Chữa như thế nào?
Trả lời: Theo như bạn mô tả không rõ ràng nên chúng tôi không thể giúp bạn chẩn đoán được bệnh gì, mà chỉ phỏng đoán có thể là bệnh viêm da thần kinh (Lichen Simplex Chrnonicus) chứ không phải bị hắc lào. 
Thương tổn của nấm có hình tròn như đồng xu hoặc hình vòng cung do nấm có khuynh hướng lan ra xung quanh. Bờ của thương tổn là những mụn nước nhỏ như rôm, kèm theo có vảy da mỏng. Trung tâm thương tổn thường lành. Bệnh lan tương đối nhanh và ngứa nhiều, dễ lây cho người mặc quần áo, dùng chung khăn tắm. Do vậy nếu là hắc lào thì trong 2 năm bệnh sẽ lan rộng chứ không khu trú ở khuỷu tay như bạn mô tả. Chỉ cần bôi thuốc kháng nấm  thông thường cũng khỏi. Ketonal là loại thuốc kháng nấm ketoconazole có tác dụng tốt với các loại nấm men (candida). Bạn đã uống hết 20 viên mà không khỏi thì đủ để loại trừ hắc lào rồi. 
Viêm da thần kinh còn được gọi là lichen đơn giản mãn tính: là hậu quả của sự ngứa gãi kéo dài tạo thành một đám da dày có các khía kẻ ô. Căn nguyên ban đầu chưa rõ, chỉ biết rằng ngứa, gãi, dày da và lichen hoá là một vòng luẩn quẩn làm cho bệnh nặng thêm. Vị trí thương tổn hay gặp của viêm da thần kinh là: phía sau bên của cổ, nếp gấp cổ chân, cổ tay, khuỷu tay (ít gặp). Ngoài ra còn gặp ở vùng sinh dục như bìu, âm hộ, quanh hậu môn, những vị trí này gãi nhiều dễ xuất tiết (chảy nước) như eczema cấp và bán cấp. Bệnh của bạn cần phải khám để chuẩn đoán phân biệt với bệnh vảy nến. Vì xuất hiện ở vị trí tì đè (khuỷu tay), đỏ da bong vảy.
Về điều trị viêm da thần kinh cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa thầy thuốc và bệnh nhân để phá vỡ vòng luẩn quẩn ngứa - gãi.
Dùng thuốc kháng histamin tổng hợp để chống ngứa. Tại chỗ bôi mỡ corticoide kết hợp với bịt, lưu băng qua đêm để tránh gãi trực tiếp vào thương tổn trong khi ngủ, tránh sờ vào thương tổn.
Để tránh những tác dụng phụ của thuốc, bạn nên đi khám bệnh đúng chuyên khoa và mua thuốc theo đơn. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO VIÊM DA THẦN KINH



+Định nghĩa : Viêm da thần kinh là một bệnh ngoài da rất ngứa, có bề mặt da thô ráp, nếp nhăn da sâu hơn, trông như nấm da; bệnh thường sinh ở phía sau cổ gáy, khuỷu tay, đầu gối, nách, kheo chân, xương cùng, thường phân bố đối xứng.
+Nguyên nhân : Thường do cảm thụ phong nhiệt tà cản trở da thịt dẫn đến âm huyết hao thương, huyết hư sinh phong hoá táo, da dẻ mất sự nhuận dưỡng. Huyết hư lâu ngày, can mất huyết dưỡng, can dương cang thịnh, tình tự bất an ninh, khẩn trương quá độ.
+Điều trị : Phép chữa chủ yếu phải lương huyết dưỡng huyết khư phong giảm ngứa.
1)TC : Tổn thương da dầy, hơi đỏ, thô ráp, thấy các vết gãi chảy máu, tự cảm thấy ngứa ngáy càng gãi càng ngứa, miệng khô khát muốn uống, tâm phiền không yên, ngủ không ngon giấc, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác hoặc huyền sác.
 : Huyết nhiệt phong thịnh
PC : Lương huyết thanh nhiệt, tiêu phong giảm ngứa.
P : Tiêu phong tán (Ngoại khoa chính tông; Công dụng : sơ phong, dưỡng huyết, thanh nhiệt trừ thấp; Chủ trị : phong độc ở cơ nhục, da có vết ban đỏ; gồm : Cam thảo, Mộc thông đều 4g, Đảng sâm, Đương quy, Hồ ma nhân, Ngưu bàng tử,Phòng phong, Sinh địa, sinh Thạch cao, Thương truật, Thuyền thoái, Tri mẫu đều 8g) gia giảm.
D : Kinh giới, Phòng phong, Ngưu bàng tử, Thuyền thoái (sơ tán phong tà), Đương quy, Sinh địa (dưỡng huyết nhuận táo), Khổ sâm (trừ thấp), Tri mẫu, sinh Thạch cao (thanh nhiệt) đều 8g – (Hồ ma, Mộc thông, Thương truật, Cam thảo); + Đơn bì,Xích thược đều 8g, Hoàng liên 6g, Táo nhân sao 12g.
2)TC : Tổn thương da lâu ngày không mất đi, ngày càng nặng thêm, càng tăng dày, thô ráp, sắc nhạt, bề mặt khô có vảy, ngứa kịch liệt, đêm nằm càng ngứa, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch tế.
 : Huyết hư phong táo.
PC : Dưỡng huyết nhuận táo, sơ phong giảm ngứa.
P : Tứ vật tiêu phong ẩm (Ngoại khoa chứng trị toàn sinh tập; Chủ trị : Huyết hư, phong nhiệt ở ngoài da, da lông khô, có mụn nhọt, lao thương, cảm phong; gồm :Bạc hà, Kinh giới, Thuyền thoái đều 6g, Cam thảo, Hoàng cầm đều 4g, Đương quythân, Xích thược đều 8g, Sài hồ, Xuyên khung 4,8g, Sinh địa 10g) gia vị.
D : Sinh địa 12,5g, Đương quy, Xích thược đều 10g, Kinh giới, Thuyền thoái, Bạc hà đều 7,5g, Xuyên khung, Sài hồ đều 6g, sinh Cam thảo 5g; + Phòng phong,Bạch tiễn bì, A giao, Táo nhân sao đều 12g.
3)P : Ngưu bì tiên ĐTĐ (Đức Thọ Đường)
CD : Lương huyết dưỡng huyết, thanh nhiệt nhuận táo, sơ can tiêu phong giảm ngứa.
CT : Viêm da thần kinh, Ngưu bì tiên.
D : Sinh địa 16g, Đương quy, Đơn bì, Xích thược, Bạch tiễn bì, Phòng phong, A giao, Đan sâm, Táo nhân sao đều 12g, Kinh giới tuệ, Xuyên khung, Thuyền thoái,Khổ sâm, Bạc hà, Tri mẫu đều 8g, Hoàng liên, Sài hồ đều 6g.
4)Ngoại trị :
4.1.Bôi dung dịch AT (acide trichlore-acétique), thường 2-3 ngày một lần, khi bong vảy da cũ, bôi lên lớp mới cho đến khi không còn ranh giới giữa tổn thương và da lành.
4.2.Bôi dung dịch ASA. Cách như 4.1.
4.3.Bôi Trứng gà ngâm dấm. Lấy 3 quả trứng gà tươi mới ngâm trong 500ml dấm gạo, bịt miệng lọ, để chỗ tối 7 ngày. Bỏ dấm lấy trứng, bóc bỏ vỏ trứng đã mềm, nhào trộn lòng đỏ lòng trắng, bôi lên chỗ tổn thương. Khoảng 1-2 phút sau chỗ bôiđã khô, bôi thêm lần nữa . Một ngày làm vài lần.
4.4.Bôi mật ong tốt lên chỗ tổn thương, khô bôi lại. 3-4 lần trong ngày. Liệu trình 1 tháng.
4.5. Bôi Ban miêu 5g ngâm trong cồn 75 độ ngâm 1 tuần, bôi lên chỗ tổn thương, sau khi rộp dừng thuốc, đợi cho vảy bong, xem tổn thương đã khỏi chưa, nếu chưa bôi tiếp , làm 2-3 lần cho đến khỏi.
4.6.Bôi bằng lá Bạch đầu ông tươi. Lấy lá tươi Bạch đầu ông ngâm trong nước lạnh, để khô khiến cho lá nhẹ mềm tiết ra nước cốt, đem lá dán lên thương tổn, phía trên đậy 2 lớp băng gạc. Lấy tay ấn 5 phút thấy bỏng đau, 20 phút hết ngứa, bỏ lớp thuốc vải băng gạc, rửa lớp da dầy bằng nước nóng, 4 ngày đặt thuốc 1 lần. Nếu dùng thuốc sau 48 giờ không thấy rộp mọng không thấy mất ngứa là không có hiệu quả.; lai dán tiếp lần khác.
4.7. Thổ cẩm bì, Đại phong tử, Khổ sâm, Bạch tiễn bì đều 30g, Thương truật, Hạc tư (?) đều 12g, Hoàng bá, Ngũ bội tử đều 15g. Tán bột, Dùng thuốc tán đựng trong túi gạc theo tổn thương. Xông hơi với nhiệt độ 80-100 độ C, lạnh đến 60 độ C lại thay miếng khác. Mỗi ngày 2 lần, mỗi lần trên 30 phút, 7 ngày là một liệu trình, thường phải dùng 3 liệu trình, Kết quả điều trị 31 ca : khỏi 12, hiệu quả rõ 15, có chuyển biến 3, không kết quả 1.
4.8.Thổ cẩm bì 620g, Tử kinh bì, Khổ sâm đều 310g, Khổ luyện căn bì, Địa du,Thiên kim tử đều 150g, Ban miêu 100 con (bọc vải), Ngô công 3 con. Ngâm trong cồn 75 độ. Dịch ngâm cho thêm 310g Chương não. Bôi ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Lưu bệnh án điều trị của LY. TTƯT. Lê Trần Đức 1965-1998.
2.Lưu bệnh án điều trị của LY. Lâm Tuệ Phương 1990-2009.
3.Lưu bệnh án điều trị của ThS. BS. Lê Anh Tuấn 1995-2003.

HÌNH ẢNH VIÊM DA THẦN KINH



VIÊM DA THẦN KINH CÓ LÂY KHÔNG?



Bệnh Zona (giời leo) là kết quảcủa sựtái hoạt động của virus herpes zoster (varicella-zoster virus hoặc VZV). Virus này cũng chính là tác nhân gây ra bệnh thủy đậu ởtrẻem. Virus thủy đậu trú ngụtrong cơthểởtrạng thái ngủbên trong các dây thần kinh cảm giác. Virus sẽ"thức giấc" sau khi gây bệnh thủy đậu nhiều năm trước trong cơthểcủa 1 trong số5 người đã từng bịthủy đậu. Sau đó, virus sẽđi dọc theo dây thần kinh cảm giác vào da và tạo ra những mảng phát ban gây đau mà người ta thường gọi là bệnh Zona (giời leo)
·                     Bệnh Zona trong tiếng Anh là Shingles có xuất xứ từ tiếng Latin và Pháp có nghĩa là dây đai, thắt lưng, phản ánh đúng tính chất phân bố của các dải phát ban. Các dải này thường là chỉ ở 1 bên của cơ thể và ở khu vực chi phối của 1 dây thần kinh cảm giác đơn độc.
·                     Tất cả những ai đã từng bị bệnh thủy đậu hoặc đã từng tiêm vaccine đều có thể nhiễm Herpes Zoter gây ra bệnh Zona. Người lớn tuổi, những người bị ung thư, HIV hoặc đã từng cấy ghép mô nên bị giảm sức đề kháng chống lại nhiễm trùng, do đó dễ bị bệnh Zona hơn.
·                     Đa số những người bị Zona đều khỏe mạnh. Không cần thiết sử dụng những xét nghiệm đặc hiệu nếu như hệ miễn dịch của bạn còn tốt.


I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH:
 

Chưa ai biết được chính xác nguyên nhân vì sao virus thủy đậu lại có thể tái hoạt động và gây ra bệnh Zona. Một vài khả năng có thể xảy ra là:
·                     Stress
·                     Mệt mỏi
·                     Hệ miễn dịch suy yếu (có thể là do tuổi tác, bệnh tật, thuốc men làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể để có thể giữ được virus thủy đậu trong trạng thái bất hoạt).
·                     Ung thư.
·                     Các biện pháp điều trị bằng tia xạ.
·                     Làm tổn thương vùng da bị nổi ban

II. CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH:


Tùy thuộc vào dây thần kinh nào bị ảnh hưởng, bệnh Zona có thể xuất hiện ở nhiều khu vực khác nhau trong cơ thể
·                     Triệu chứng đầu tiên của Zona thường là tăng cảm giác da hoặc cảm giác đau ở 1 phía của cơ thể. Những cảm giác da có thể gặp là ngứa, căng, bỏng, nhức dai dẳng hoặc đau sâu, đau nhói.
·                     Thông thường thì sau khi cơn đau xuất hiện được 1-3 ngày các dải ban sẽ nổi lên, tấy đỏ, phồng lên ở ngay vị trí đau. Sau đó nó sẽ tụ mủ và đóng vảy trong 10-12 ngày.
·                     2 - 3 tuần sau, ban sẽ biến mất và vảy rơi ra và có thể để lại sẹo.
Khi nào cần đến gặp bác sĩ

Đi khám khi bạn bị đau hoặc nổi ban thành 1 dải ở một phía của cơ thể. Nếu bạn nghĩ bạn bị Zona, đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt vì những thuốc kháng virus chỉ hiệu quả khi được sử dụng sớm.
·                     Nếu vết ban và vết phồng nổi lên ở mũi hoặc gần mắt, bạn cần phải đi khám ngay lập tức vì virus có thể lan đến mắt làm tổn thương mắt và mù.
·                     Bạn cũng cần phải đến khám càng sớm càng tốt nếu bạn đang có những bệnh làm suy giảm sức miễn dịch của cơ thể. Nhờ đó bạn có thể tránh được những biến chứng.
Đến phòng cấp cứu nếu như có các dấu hiệu:
·                     Bệnh Zona kèm với sốt cao hoặc mệt mỏi.
·                     Vết phồng lan ra những khu vực khác của cơ thể.
Lâm sàng và cận lâm sàng

Kiểu đau kinh điển, vết phồng nổi lên thành 1 dải ở 1 bên của cơ thể là tất cả những dấu hiệu cần thiết đủ để bác sĩ chẩn đoán bạn đã bị nhiễm Herpes Zoster. Ban có thể lan ra ngoài dải này hoặc hiếm gặp hơn là lan sang phía bên kia của cơ thể. Đôi khi bệnh nhân chỉ đau theo 1 dải mà không thấy nổi ban.
·                     Có thể bác sĩ sẽ quyết định làm xét nghiệm để xác định xem bạn có bị Zona hay không. Tuy nhiên, những xét nghiệm này không phải lúc nào cũng cần thiết.
·                     Phết Tzanck: hiện nay ít được sử dụng hơn trước do những kỹ thuật mới đã xuất hiện, người ta rạch vết phồng và lấy dịch cùng với các tế bào da trong đó đặt lên slide. Sau đó nhuộm màu bằng 1 loại thuốc nhuộm đặc biệt rồi đưa lên kính hiển vi để tìm những biến đổi của tế bào gây ra bởi virus. Phương pháp này không thể giúp phân biệt được giữa VZV và Herpes Simplex Virus (HSV), tuy nhiên VZV gây bệnh zona và thủy đậu còn HSV gây ra bệnh Herpes simplex (đôi khi thường được biết đến bằng cái tên Herpes môi hoặc Herpes sinh dục).
·                     Cấy virus hoặc test kháng thể đặc biệt, như DFA (direct fluorescent antibody - kháng thể huỳnh quang trực tiếp), trong sang thương có thể xác định được VZV. DFA thường cho kết quả sau 1 giờ. Xét nghiệm này có thể giúp phân biệt được giữa VZV và HSV. Cấy virus có thể cho kết quả sau 2 tuần hoặc hơn.
·                     Sinh thiết da: lấy một mẩu da ở sang thương và xem xét chúng dưới kính hiển vi. Có thể dùng mô sinh thiết để cấy nếu không có mẩu sang thương nguyên vẹn. Ngoài ra người ta còn có thể dùng PCR (polymerase chain reaction) để phát hiện ra DNA của virus trong mẫu mô được sinh thiết.

III. QUÁ TRÌNH Ủ BỆNH:

Trước khi thấy được những mẫn đỏ, bệnh nhân có thể có cảm giác đau rát và nhạy cảm vùng da trước đó vài ngày đến 1 tuần. Bệnh zona khởi đầu là những mụn rộp (mụn nước) trên nền da màu đỏ, những mụn nước mới tiếp tục hình thành từ 3-5 ngày. Mụn nước này thường đi theo đường dây thần kinh của tuỷ sống.
Toàn bộ dây thần kinh liên quan có thể bị, hay những vùng khác không có liên quan đến phân bố dây thần kinh cũng có thể bị. Thường thì bệnh zona chỉ ăn theo một dây thần kinh, hiếm khi bị nhiều hơn một dây thần kinh.
Cuối cùng thì các mụn nước này vỡ ra và bắt đầu chảy nước, bề mặt bên trên khô đi và hoá sẹo. Quá trình này có thể kéo dài 3-4 tuần từ khi bắt đầu bị bệnh đến khi khỏi. Thỉnh thoảng, đau vẫn còn mặc dù không bao giờ nhìn thấy mụn nước, làm dễ lầm lẫn với nguyên nhân đau tại chỗ.

IV. SỰ LÂY TRUYỀN BỆNH:

Bệnh zona có thể lây truyền từ người bị nhiễm sang trẻ em hay người lớn mà những người này trước đây không mắc bệnh thuỷ đậu. Thay vì bị zona, nhưng những người này lại mắc bệnh thuỷ đậu. Một khi những người này đã mắc bệnh thuỷ đậu thì họ sẽ không bị nhiễm zona từ người khác.
Tuy nhiên, một khi đã bị nhiễm zona, thì họ lại có khả năng bị zona sau này trong cuộc đời. Khi tất cả những mụn nước đã khô, thì không còn khả năng lây được nữa.

V. CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH RONA THẦN KINH

Thường thì bệnh zona được chữa khỏi, và bệnh zona cũng có một số vấn đề. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó, mụn nước có thể bị nhiễm thêm một loại vi trùng sẽ gây ra viêm mô tế bào, đây là bệnh nhiễm trùng da. Nếu nhiễm trùng da xảy ra, vùng da trở nên đỏ hơn, nóng, sưng bóng lên và rất đau.
Bạn cũng có thể thấy vệt màu đỏ xung quanh vết thương. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số đó, bạn hãy liên hệ đến bác sĩ của bạn để được chăm sóc. Kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị trong những trường hợp này.
Một biến chứng nữa cũng làm cho người bệnh lo lắng là khi bị zona ở mặt, đặc biệt ở trán và mũi. Trong những trường hợp này, zona có thể làm giảm thị lực. Nếu bạn bị zona ở trán hay ở mũi thì bạn cũng cần được chăm sóc y tế.

VI. CÁCH ĐIỀU TRỊ BỆNH RONA THẦN KINH:

Tại nhà:

Nếu bạn nghĩ mình bị Zona, hãy đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt, vì thuốc kháng virus chỉ có hiệu quả khi được sử dụng sớm.
·                     Không được gãi vì có thể làm gia tăng nguy cơ bị nhiễm trùng thứ phát và có thể để lại sẹo. Thuốc kháng histamin có thể giúp giảm ngứa.
·                     Thuốc giảm đau đôi khi cũng cần thiết/
·                     Dùng băng ép ngâm nước lạnh băng vào sang thương rỉ mủ trong khoảng 20 phút khoảng 7, 8 lần/ngày để làm dịu bớt cơn đau và làm khô sang thương. Nó còn giúp lấy bớt vảy ra ngoài và giảm khả năng bị nhiễm trùng. Ngưng sử dụng băng ép khi sang thương đã khô giúp cho những vùng da xung quanh không trở nên khô và ngứa.
·                     Giữ cho khu vực sang thương được sạch sẽ bằng xà bông nhẹ và nước. Mặc quần áo rộng để tránh bị thương thêm khi quần áo tiếp xúc với sang thương. Tránh những tiếp xúc da-chạm-da với những người chưa từng bị thủy đậu, đang bệnh, hoặc những người bị suy giảm hệ miễn dịch.
Dùng thuốc:
·                     Một vài bác sĩ chỉ điều trị triệu chứng của Zona như đau. Một vài thuốc giảm đau được sử dụng, chẳng hạn như acetaminophen (VD Tylenol), và ibuprofen (VD Advil) hoặc thuốc giảm đau tricyclic, đặc biệt là trong trường hợp đau dây thần kinh sau tổn thương (PHN - Postherpetic neuralgia). PHN là những cơn đau kéo dài ở một số người ngay cả sau khi sang thương đã biến mất.
·                     Thuốc kháng virus, như acyclovir (Zovirax), valacyclovir (Valtrex) và famciclovir (Famvir), có thể là giảm thời gian phát ban và đau, bao gồm cả PHN. Cần phải bắt đầu sử dụng những loại thuốc này trong giai đoạn sớm của bệnh mới có hiệu quả. Bác sĩ sẽ quyết định bạn cần sử dụng loại thuốc nào.
·                     Đôi khi, corticoid cục bộ có thể được dùng để giảm viêm. Những thuốc cục bộ có thể được sử dụng để làm giảm đau và ngừa nhiễm trùng.
Theo dõi

Sau khi rời khỏi phòng mạch bác sĩ, cần phải uống tất cả những loại thuốc được kê đơn và làm theo đúng hướng dẫn. Nếu bạn ghi nhận được những triệu chứng mới hoặc nếu bạn không thể kiểm soát được cơn đau hoặc cơn ngứa, hãy thông báo với bác sĩ.

Dự phòng

Khôngc ó cách nào để dự phòng Zona cả.
·                     Bạn không thể bị lây bệnh từ những người bị Zona. Tuy nhiên, nếu bạn chưa từng bị thủy đậu, bạn có thể bị lây bệnh thủy đậu từ những tiếp xúc gần gũi với những sang thương hở miệng ở những người bị Zona. Dùng quần áo che phủ sang thương lại giúp giảm nguy cơ lây lan cho người khác.
·                     Vaccine VZV, còn được biết đến là vaccine ngừa thủy đậu, có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Zona do làm tăng sức đề kháng của cơ thể để chống lại VZV hoặc giữ chúng trong trạng thái bất hoạt. Những cải tiến của loại vaccine này đang được nghiên cứu và có thể giúp ngừa được bệnh Zona trong tương lai.
Tiên lượng

Đa số các trường hợp bị Zona đều tự khỏi có thể có điều trị hoặc không. Ban và đau có thể khỏi sau từ 2 đến 3 tuần. Tuy nhiên, bệnh có thể kéo dài lâu hơi và thậm chí là tái phát ở người lớn tuổi, đặc biệt là trên 50 tuổi, hoặc có bệnh trầm trọng.
·                     Có thể những cơn đau vẫn còn tiếp diễn sau khi sang thương biến mất. Những cơn đau này được gọi là PHN. Thường gặp ở người lớn tuổi, và có thể là rất nặng nề.
·                     Những biến chứng khác có thể gặp là nhiễm trùng da, nhiễm trùng lây lan đến những cơ quan nội tạng hoặc làm tổn thương mắt. Thường để lại sẹo.


VIÊM DA THẦN KINH LÀ GÌ?


Tôi hay bị ngứa rất dữ dội, phải gãi trầy da mới đỡ, khám bệnh kết quả ghi là viêm da thần kinh. Xin hỏi bệnh của tôi cần chữa như thế nào?

Nguyễn Thị Duyên  (Thanh Hóa)
Bệnh viêm da thần kinh gây ngứa từng cơn buộc bệnh nhân phải dùng tay gãi, ngứa có thể dữ dội làm cho bệnh nhân mất ngủ. Tổn thương là mảng da khô, dày, liken hóa hay gặp ở cổ, cổ tay, vùng đáy chậu, đùi, hoặc hầu hết cơ thể. Mảng thương tổn hình đa giác có bờ rõ, rất dày và nhiễm sắc tố. Các đường vân của da hằn sâu xuống chia tổn thương thành hình đa giác. Viêm da thần kinh cần phân biệt với một số bệnh như: vảy nến, có biểu hiện bằng dát đỏ hơn và trên có vảy dày, trắng hay thấy ở vùng khuỷu tay, đầu gối, da đầu. Bệnh liken phẳng biểu hiện là những sẩn nhỏ, hình đa giác, màu tím. Bệnh chàm đồng tiền. Điều trị dùng thuốc bôi corticosteroid có tác dụng làm bệnh thuyên giảm, bôi 2 lần ngày trong vài tuần trở lên. Vùng tổn thương cần được bảo vệ. Bệnh nhân nên hạn chế gãi, tránh các stress, sang chấn tinh thần vì đều là tác nhân gây ngứa. Bệnh sẽ đỡ khi được điều trị nhưng sẽ tái phát ở các vị trí khác.

NGUYÊN NHÂN VIÊM DA THẦN KINH



I. ĐẠI CƯƠNG
Tổn thương thần kinh ngoại biên là tập hợp nhiều bệnh lý với những biểu hiện lâm sàng khác nhau. Khám lâm sàng trong hội chứng này rất quan trọng để có thể tìm ra được nguyên nhân. Việc tìm kiếm này cần thiết đến nỗi cho đến tận ngày nay vẫn phát hiện thêm những hội chứng mới và làm phát triển rất nhiều cho việc điều trị. Đã có nhiều hội chứng được định nghĩa trước đây:
- Đầu tiên là viêm đa dây thần kinh (polyneuropathy), với bệnh lý tổn thương hai bên, đối xứng, có rối loạn cảm giác hoặc rối loạn cảm giác - vận động. Đây là bệnh cảnh thường gặp nhất.
- Viêm nhiều dây thần kinh (multineuropathy hay multiple mononeuropathy) mà biểu hiện của nó không đối xứng. Bệnh cảnh này chủ yếu gặp trong những bệnh lý thần kinh ngoại biên có liên quan đến tình trạng viêm động mạch, nhất là viêm nút quanh động mạch, bệnh tiểu đường, bệnh Porphyric.
- Cuối cùng là những trường hợp viêm đa rễ dây thần kinh ngoại biên mà tổn thương xảy ra tuần tự ở thân và rễ thần kinh, tổn thương vừa ở xa vừa ở gần. Tính chất cấp hay mạn của bệnh lý này được dựa trên tình trạng diễn tiến của bệnh dưới hay trên 6 tháng.
II. BỆNH LÝ TỔN THƯƠNG THẦN KINH NGOẠI BIÊN THEO YHHĐ
* VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH
Bệnh lý thần kinh ngoại biên này thường gặp nhất và có thể xuất hiện trong nhiều bệnh lý khác nhau, do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên:
1. Do dùng thuốc.
2. Do ngộ độc rượu, chì, arsenic, độc chất …
3. Do thiếu sinh tố nhóm B: B1, B2, B6 …
4. Trong các bệnh ác tính và cận ung thư.
5. Trong các bệnh thoái hóa, di truyền.
6. Trong các bệnh biến dưỡng, tiểu đường, porphyric, goutte, urê huyết cao.
7. Trong các bệnh nhiễm trùng: bạch hầu …
A. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH DO DÙNG THUỐC:
Phần lớn các trường hợp là tổn thương sợi trục dẫn đến bệnh cảnh rối loạn cảm giác, hoặc rối loạn cảm giác - vận động, rất hiếm khi chỉ biểu hiện rối loạn vận động. Bệnh lý này thường gặp hơn những trường hợp viêm đa dây thần kinh do độc chất.
1. Tổn thương sợi trục:
- Tính chất chủ yếu của bệnh là bán cấp và mạn.
- Những dấu hiệu đầu tiên trong phần lớn các trường hợp là rối loạn cảm giác ở ngọn chi, di chuyển dần về gốc chi. Triệu chứng nổi bật là tê, giảm cảm giác, hoặc hiếm hơn là đau ở ngón chân - bàn chân, sau đó là bàn tay.
- Biểu hiện lâm sàng giai đoạn đầu thường nghèo nàn gồm giảm cảm giác đau và nóng lạnh ở phần xa của chi dưới và giảm phản xạ gân gót. Giảm vận động xuất hiện trễ nhất và thường chỉ là dấu bàn chân rớt.
- Dấu điện cơ có giá trị quan trọng. Dấu chứng này lúc đầu xuất hiện ở chi dưới, sau đó mới xuất hiện ở chi trên. Trừ trường hợp đặc biệt, dịch não tủy thường trong giới hạn bình thường. Giải phẫu bệnh lý thần kinh - cơ đôi khi cần thiết cho chẩn đoán và cung cấp tư liệu gợi ý về 1 nguyên nhân.
- Ngưng dùng thuốc sẽ làm giảm viêm đa dây thần kinh. Tuy nhiên sự hồi phục còn tùy thuộc rất lớn vào cơ địa (lớn tuổi, có bệnh kèm theo … sẽ làm chậm thời gian hồi phục), thời gian, mức độ trầm trọng của ngộ độc thuốc và vào những yếu tố cá nhân còn chưa được biết rõ.
a/ Almitrine (Bismesylate d’):
Được phát hiện đầu tiên năm 1985 bởi Ghérardi R. và cộng sự trên những bệnh nhân sau thời gian dài dùng Vectarion (bệnh đường hô hấp mạn tính). Năm 1989, Bouche P. và cộng sự báo cáo về những tai biến sau thời gian dài dùng Duxil (phối hợp giữa Almitrine và Raubasine).
- Bệnh cảnh là viêm đa dây thần kinh thể rối loạn cảm giác - vận động: rối loạn cảm giác xuất hiện trước tiên và ảnh hưởng đến tất cả các loại cảm giác (đau, nhiệt độ, rung, cảm giác bản thể).
- Bệnh có diễn tiến bán cấp, chậm và thường có kèm gầy toàn thân. Dấu liệt vận động đến trễ hơn, xuất hiện đầu tiên ở phần xa của chi.
- Chẩn đoán xác định nhờ điện cơ và giải phẫu bệnh (cho thấy bệnh ở bao myelin của các sợi thần kinh có đường kính trung bình và lớn).
- Cách điều trị tốt nhất là phòng ngừa. Không dùng thuốc trên bệnh nhân có nguy cơ ngộ độc thần kinh (tiểu đường, suy thận, đang dùng 1 loại thuốc độc thần kinh khác). Ngưng ngay thuốc khi xuất hiện triệu chứng tê chân. 
b/ Dapsone:
Rất thường dùng trong điều trị phong hoặc một số bệnh ngoài da (như Acne conglobata hoặc nhiễm Pneumocystis carinii). Thuốc dễ gây độc khi dùng đến liều > 400 mg/ngày trong một thời gian dài.
- Bệnh cảnh là viêm đa dây thần kinh ảnh hưởng đến phần xa của các sợi trục vận động, làm xuất hiện dấu liệt tiến triển ở các phần xa của tứ chi (có thể nặng hơn ở chi trên) và kèm theo teo cơ.
- Dấu rối loạn cảm giác thường hiếm gặp.
c/ DDC và DDI:
Đây là 2 loại thuốc được dùng gần đây điều trị nhiễm HIV, nhất là những trường hợp kháng hoặc không dung nạp với Zidovudine.
- Bệnh cảnh là viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác, mức độ nặng nhẹ tùy thuộc vào liều thuốc sử dụng.
- Tính chất lâm sàng đặc biệt là đau kiểu nóng rát các đầu chi.
- Bệnh lui dần sau khi ngừng thuốc.
d/ Disulfirame:
Thường dùng trong điều trị nghiện rượu. Thường gây bệnh cảnh viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác và đau. Liều có thể gây độc khi trên 125 mg/ngày (Palliyath SK. 1990).
e/ Isoniazide:
Gây bệnh cảnh viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác. Có thể phòng ngừa với vitamin B6.
f/ Lithium:
Thường gây viêm đa dây thần kinh thể rối loạn vận động, làm liệt cả tứ chi. Có thể kết hợp với một số bệnh cảnh não cấp trầm trọng.
g/ Metronidazol:
Chỉ gây biến chứng thần kinh nếu sử dụng dài ngày như trong điều trị bệnh Crohn hay các trường hợp nhiễm trùng hiếm khí. Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác kèm đau. Ornidazole và Misonidazol cũng có khả năng gây viêm đa dây thần kinh như Metronidazol.
h/ Nitrofurantoin: 
Gây viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác - vận động.
i/ Podophylline:
Dùng ngoài da trị mụn cóc và các condylomes. Loại thuốc này gây viêm đa dây thần kinh thể cảm giác hoặc cảm giác - vận động khi bệnh nhân uống (tự tử). Bệnh thường kèm dấu chứng tiêu hóa và bệnh cảnh não. 
j/ Thalidomide:
k/ Vidarabine:
Dùng trong điều trị viêm gan siêu vi B. Có khả năng gây viêm đa dây thần kinh thể rối loạn cảm giác - vận động nặng, đôi khi kèm rối loạn thực vật trầm trọng (Chauplannaz G. và cộng sự 1984).
l/ Vincristine: 
Thường dùng trong điều trị các bệnh ác tính.
- Thường là gây viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác.
- Dấu hiệu sớm nhất là tê ở các đầu chi.
- Khám lâm sàng phát hiện giảm cảm giác đau, nhiệt độ và bản thể ở phần xa của chi và mất phản xạ gân cơ. Rối loạn vận động hiếm thấy.
- Điều trị ngoài việc ngưng thuốc, có thể sử dụng những thuốc “bảo vệ thần kinh” là acid glutamique (Jackson DW, 1988), Naptidrofuryl (Léger JM, 1994).
- Bệnh lý viêm đa dây thần kinh do dùng thuốc ngày càng phong phú. Tham khảo tạp chí thần kinh trong 10 năm gần đây cho thấy đã có những gợi ý về những loại thuốc trị cường giáp Carbimazole (Léger, 1984), Cimetidine (Pouget, 1986), Sirop ho Codobromyl (Mabin, 1988), Salazosulfaridine: trị viêm đại trực tràng chảy máu (Blin, 1992), Piroxicam (Sangla, 1993).
2. Tổn thương tế bào thần kinh:
Tổn thương xảy ra ở các tế bào thần kinh cảm giác, do đó còn được gọi tổn thương hạch thần kinh nguyên phát.
- Trên lâm sàng xuất hiện đơn thuần rối loạn cảm giác, xuất hiện trước tiên ở phần xa của chi, tiến dần về gốc chi.
- Thất điều.
- Mất phản xạ gân cơ.
- Điện cơ có giá trị quan trọng trong chẩn đoán.
a/ Cisplatine:
Rất thường dùng trong điều trị ung thư. Cần chẩn đoán phân biệt với viêm đa dây thần kinh trong các bệnh cận ung thư. Việc phân biệt nhờ vào kháng thể anti HV (-).
b/ Sinh tố B6 thường gặp ở Mỹ do dùng B6 liều cao và kéo dài.
3. Tổn thương bao myelin:
Tổn thương loại này do dùng thuốc ít gặp nhất. Đặc điểm lâm sàng là rối loạn vận động ở cả xa và gần, mất phản xạ gân cơ sớm. Dịch não tủy thường có đạm tăng cao. Chẩn đoán xác định nhờ vào điện cơ và sinh thiết.
a/ Amiodarone: Thường dùng cho rối loạn nhịp tim.
- Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác và vận động. Các rối loạn cảm giác rõ rệt hơn gồm tê và giảm cảm giác đầu chi, thất điều, mất phản xạ gân cơ.
- Dịch não tủy thường có tăng protein. Chẩn đoán xác định bằng điện cơ và sinh thiết.
- Hồi phục chậm sau khi ngưng thuốc.
b/ Chloroquine:
Thường biểu hiện dưới các bệnh cảnh bệnh thần kinh và cơ (neuromyopathy). Hồi phục tốt sau ngưng thuốc. 
c/ Tryptophane:
Dùng lâu dài loại thuốc này thường làm xuất hiện hội chứng đau nhức cơ và tăng tế bào ái toan. Trong 20 - 30% trường hợp có kèm biến chứng viêm đa dây thần kinh thể cảm giác - vận động và đau nhức.
d/ Muối vàng:
Thường dùng trong viêm đa khớp dạng thấp. Có thể gây bệnh ở não nhưng cũng có thể gây nên viêm đa dây thần kinh có kèm đau nhức. Năm 1992, Petiot P. và cộng sự đã báo cáo trường hợp viêm đa rễ dây thần kinh do dùng muối vàng. 
B. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH DO NGỘ ĐỘC:
1. Ngộ độc Acrylamide:
Tiếp xúc lâu dài loại thuốc độc này có thể gây viêm đa dây thần kinh loại tổn thương sợi trục kiểu rối loạn cảm giác - vận động. Đặc biệt có thể kèm tổn thương thần kinh trung ương, tiểu não và thần kinh thực vật.
2. Arsenic:
- Ngộ độc Arsenic cấp: ói mửa, tiêu chảy, sang thương da, bệnh cảnh não cấp, bệnh cơ tim, gan …
- Ngộ độc Arsenic mạn: dấu tổng quát (như mệt mỏi, kém ăn, ói mửa), dấu ngoài da (da lòng bàn tay, bàn chân dày lên, móng có những sọc trắng, da mất sắc tố), viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác - vận động (thường ảnh hưởng cảm giác bản thể), teo cơ vùng xa của chi.
- Điều trị bằng Dimercaptopropanolol (BAL) hay với Penicillamine. Phải theo dõi nhiều tháng. Trong trường hợp ngộ độc kéo dài, sự hồi phục thường không hoàn toàn.
3. N- hexan:
Thường xảy ra trong kỹ nghệ làm sơn mài, làm keo. Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh kiểu cảm giác, đôi khi có thể có rối loạn vận động.
4. Phospho hữu cơ:
Xảy ra trước đây trong kỹ nghệ làm thuốc sát trùng, hiện nay thấy trong kỹ nghệ nhựa. Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác - vận động, thường có kèm tổn thương trung ương với biểu hiện của tổn thương tháp. Điều trị bằng Atropin chỉ có tác dụng trên hội chứng cholinergic, không có giá trị đối với viêm đa dây thần kinh.
5. Chì:
Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn vận động biểu hiện chủ yếu ở chi trên, các cơn đau bụng, kèm thể trạng suy giảm, mệt mỏi, gầy, kém ăn. Xét nghiệm máu thường có thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ. Chẩn đoán xác định bằng đo lượng chì trong máu và nước tiểu. Điều trị với Penicillamine, EDTA.
6. Thallium:
Thường xuất hiện với bệnh cảnh viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác kèm đau, rối loạn tiêu hóa, viêm thần kinh hậu nhãn cầu và tổn thương thần kinh trung ương.
7. Rượu: viêm đa dây thần kinh do rượu xảy ra trên 40% người nghiện rượu.
- Bệnh cảnh lâm sàng là viêm đa dây thần kinh có rối loạn cảm giác và vận động, diễn tiến âm thầm.
- Triệu chứng đầu tiên xuất hiện ở phần xa của chi dưới: vọp bẻ về đêm, tê bàn chân, đi mau mệt, đau khi bóp các cơ.
- Mất phản xạ gân cơ xuất hiện sau đó, giảm cảm giác ở vùng xa. Trong thể điển hình, bệnh nhân thường than phiền đau ở bàn chân và chân. Đau kiểu nóng rát thường xuyên, liên tục với những cơn đau như điện giật. Yếu liệt các nhóm cơ cẳng chân trước làm xuất hiện dấu bàn chân rớt.
- Khám lâm sàng có giảm cảm giác kiểu mang tất (ở chi dưới), kiểu mang găng (ở chi trên). Rối loạn cảm giác bản thể ít rõ rệt. Teo cơ, rối loạn dinh dưỡng, giảm hoặc mất phản xạ gân cơ.
- Chẩn đoán nhờ vào điện cơ. Dịch não tủy thường bình thường, đôi khi đạm có thể tăng.
- Điều trị với sinh tố, chế độ ăn giàu đạm, giảm đau với các thuốc Tricyclique.
C. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH DO THIỂU DƯỠNG:
1. Viêm đa dây thần kinh do thiếu sinh tố nhóm B (B1, B6, B8, B12, Folic acid …):
Những trường hợp bệnh do thiếu sinh tố nhóm B, có thể xuất hiện đơn độc hoặc kết hợp với thiếu đạm và năng lượng, là nguyên nhân của những bệnh lý viêm đa dây thần kinh và bệnh não cấp.
- Trong tất cả các trường hợp đều có sự hiện diện của rối loạn cảm giác chủ quan, chủ yếu biểu hiện ở phần xa của chi như vọp bẻ, tăng cảm giác đau (nhất là cảm giác nóng rát lòng bàn tay, bàn chân), đôi khi rất dữ dội và đặc biệt.
- Khám lâm sàng phát hiện rối loạn vận mạch, rối loạn cảm giác ở phần xa của chi (cả cảm giác nông và sâu). Mất phản xạ gân cơ. Dấu vận động biểu hiện rõ ở chi trên và nhóm cơ nâng bàn chân làm xuất hiện teo cơ cẳng tay và vùng mặt ngoài cẳng chân.
2. Viêm đa dây thần kinh do thiếu sinh tố PP hay Niacine:
Thiếu sinh tố PP có thể làm xuất hiện một bệnh cảnh viêm đa dây thần kinh và trong trường hợp nặng có thể xuất hiện bệnh cảnh pellagra điển hình gồm tam chứng: sang thương ngoài da, tiêu chảy, rối loạn ý thức (ảo giác, lú lẫn). Bệnh cảnh chỉ xuất hiện trong trường hợp chế độ ăn vừa thiếu PP vừa thiếu Tryptophane (có vai trò trong tổng hợp PP nội sinh). Bệnh thường thấy trong một vài trường hợp ung thư ruột non khi 60% Tryptophane bị biến đổi sang Sérotonine. 
3. Viêm đa dây thần kinh do thiếu sinh tố E (Tocopherol):
Bệnh cảnh thường xuất hiện chung với sự thiếu hụt nhiều loại sinh tố khác. Bệnh cảnh xuất hiện là viêm đa dây thần kinh diễn tiến âm thầm, kết hợp với liệt phối hợp vận động mắt, thất điều thứ phát do teo vỏ tiểu não và giảm thị lực do tổn thương võng mạc (trầm trọng thêm khi có thiếu sinh tố A phối hợp).
D. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH TRONG CÁC BỆNH CẬN UNG THƯ:
Những hội chứng thần kinh cận ung thư được xác định khi có bệnh ác tính kết hợp, đồng thời không thấy biến chứng di căn, biến chứng do dùng thuốc điều trị, do biến dưỡng, do thiểu dưỡng hoặc nhiễm trùng. Mặc dù tỷ lệ xuất hiện thấp (không đến 1% các trường hợp ung thư) nhưng việc xác định bệnh lý, việc hiểu biết về nhóm bệnh này có 2 lợi ích:
- Về lý thuyết, một số trong những bệnh lý này có vẻ là bệnh lý tự miễn.
- Về thực hành, nó giúp hướng đến chẩn đoán sớm ung thư trong 50% trường hợp.
Sau vài bài báo lẻ tẻ, đến cuối thế kỷ XIX và đặc biệt sau báo cáo của Denny Brown năm 1949, Henson, Urich, Brain, Corsellis những năm 50, đã mô tả giải phẫu lâm sàng các bệnh lý này. Trong những năm 80, sự phát hiện kháng thể tự miễn trong huyết thanh đã làm sáng tỏ cơ chế sinh bệnh học của một vài hội chứng (De Lattre J.Y. và cộng sự 1991) và cho phép gợi ý đến phân loại bệnh dựa trên có sự hiện diện hay không của kháng thể tự miễn, tần số xuất hiện của hội chứng thần kinh với bệnh ung thư (Dubas F. 1992).

K phối hợp
Kháng thể
Viêm não tủy bán cấp cận ung thư
Thoái hóa tiểu não cận ung thư
Opsoclonus myoclonus parancoplasique
Hội chứng Lambert - Eaton
Bệnh võng mạc cận ung thư
K phế quản
K phụ khoa
K vú
(neuroblastome)
K phổi
K phổi
Anti - Hu
Anti - Yo
Anti - Ri
Anti canaux Ca++
Anti Retine
Có thể thấy rằng những bệnh ác tính trước khi được phát hiện có thể gây tổn thương trên hệ thần kinh. Tổn thương rất đa dạng và có thể xuất hiện nhiều từ trung ương đến ngoại biên với các triệu chứng phong phú ở não, tiểu não, mắt … Và thậm chí có những trường hợp tai biến mạch máu não có nguồn gốc ung thư xảy ra do đông máu nội mạch.
Bài này tự giới hạn trong những bệnh lý thần kinh ngoại biên cận ung thư;
1. Viêm đa dây thần kinh kiểu cảm giác cận ung thư của Denny Brown:
Đây là dạng khá phổ biến. Bệnh cảnh lâm sàng gồm thất điều, rối loạn cảm giác, nhất là cảm giác bản thể, đau nhức và có kèm yếu tứ chi. Bệnh cảnh lâm sàng thường có phối hợp với viêm não (rối loạn hành vi, lú lẫn), tổn thương vùng thân não (liệt các cơ mắt, rối loạn tiền đình). Cần chú ý là trong 50% các trường hợp, người ta không tìm ra được bệnh ung thư (Authier F.J., De Lattre J.Y 1992).
2. Viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn cảm giác-vận động cận ung thư:
Phần lớn là viêm đa dây thần kinh điển hình. Hiếm hơn là những trường hợp viêm đa dây thần kinh diễn tiến từng đợt với những đợt bệnh giảm rối lại tái phát. Viêm đa dây thần kinh trong giai đoạn cuối thường là viêm đa dây thần kinh có nhiều nguyên nhân (thiếu sinh tố, thiểu dưỡng, do dùng thuốc …).
3. Viêm đa dây thần kinh kiểu rối loạn vận động bán cấp:
Ít xảy ra hơn. Hay gặp trong lymphomes ác tính.
4. Viêm nhiều dây thần kinh hoặc đa rễ dây thần kinh Guillain-Barré:
Cũng đã được nêu trong diễn tiến của các bệnh ác tính (Hodgkin).
E. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH TRONG CÁC BỆNH THOÁI HÓA, DI TRUYỀN:
Được xếp vào 3 nhóm chính.
- Viêm đa dây thần kinh di truyền kiểu rối loạn cảm giác - vận động. (neuropathies sensitivo-motrices héréditaires).
- Viêm đa dây thần kinh di truyền kiểu rối loạn cảm giác và thực vật. (neuropathies sensitives et dysautonomiques héréditaires).
- Viêm đa dây thần kinh di truyền kiểu vận động. (neuropathies motrices héréditaires).
Trong từng nhóm có nhiều týp bệnh khác nhau:
1. Viêm đa dây thần kinh di truyền kiểu rối loạn cảm giác - vận động. 
- Type I: Bệnh Charcot Marie - Tooth có thoái hóa myelin và phì đại cơ.
- Type II: Bệnh Charcot Marie - Tooth có tổn thương tế bào thần kinh.
- Type III: Bệnh Déjeurine Sottas.
- Type V: Kết hợp với liệt 2 chi dưới co cứng.
- Type VI: Kết hợp với teo thần kinh thị.
- Type VII: Kết hợp với viêm võng mạc sắc tố.
- Type IV: Tương ứng với bệnh Refsum.
2. Viêm đa dây thần kinh di truyền kiểu rối loạn cảm giác và thực vật. 
- Type I: Bệnh Thévenard thể trội.
- Type II: Bệnh Thévenard thể lặn.
- Type III: Rối loạn thực vật gia đình (hội chứng Riley - Day).
- Type IV: Không có cảm giác đau bẩm sinh.
- Type V: Bệnh thần kinh ngoại biên bẩm sinh với mất chuyên biệt các sợi có bao myelin đường kính nhỏ.
F. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH TRONG CÁC BỆNH BIẾN DƯỠNG:
1. Viêm đa dây thần kinh do tiểu đường:
Tổn thương thần kinh ngoại biên là biến chứng thường gặp. Những nghiên cứu dịch tễ học gần đây nhất cho thấy dấu lâm sàng khách quan của biến chứng thần kinh gặp ở 13% bệnh nhân tiểu đường dưới 60 tuổi, 33% bệnh nhân tiểu đường trên 60 tuổi; dấu lâm sàng chủ quan của biến chứng thần kinh gặp ở 28% bệnh nhân tiểu đường dưới 60 tuổi, 48% bệnh nhân tiểu đường trên 60 tuổi. Ảnh hưởng trên tần số xuất hiện bệnh, ngoài yếu tố tuổi tác nêu trên, còn có yếu tố về thời gian mắc bệnh tiểu đường và vấn đề kiểm soát biến dưỡng.
* Lâm sàng:
a. Thể rối loạn cảm giác:
- Tê 2 chi dưới, đối xứng, ngọn chi nặng hơn gốc chi.
- Đau dữ dội như cháy bỏng, đau như xoắn vặn sâu trong cơ.
- Cảm giác khách quan ít khi bị rối loạn, trừ cảm giác sâu.
- Phản xạ gân cơ mất. Rối loạn vận mạch và teo cơ, kèm theo loét lòng bàn chân. Ra nhiều mồ hôi.
b. Thể rối loạn vận động - cảm giác:
- Liệt đối xứng 2 chi dưới của các cơ mặt ngoài và trước cẳng chân. Liệt 2 bên (bàn chân rũ) và tiến triển nhanh.
- Rối loạn cảm giác khách quan rất mơ hồ. Ít có rối loạn dinh dưỡng.
- Bệnh diễn tiến kéo dài và việc điều trị bệnh tiểu đường ở giai đoạn này thường ít có hiệu quả.
c. Thể giả bệnh Tabès:
- Đau giống như trong bệnh Tabès (đau rất dữ dội).
- Rối loạn cảm giác sâu (loạng choạng).
- Mất phản xạ gân cơ.
- Ngoài ra, những bệnh liệt tứ chi bán cấp cũng được ghi nhận, hình thể lâm sàng giống viêm đa rễ và dây thần kinh.
* Điều trị:
- Điều trị đúng mức bệnh nguyên (tiểu đường) có giá trị phòng ngừa biến chứng Viêm đa dây thần kinh, nhất là thể chí có rối loạn cảm giác.
- Sinh tố B1, B12 liều cao.
- Thuốc giảm đau trong trường hợp đau nhiều. Thuốc dãn mạch ít có tác dụng.
- Chú ý ngăn ngừa biến dạng khớp do teo cơ. 
2. Viêm đa dây thần kinh do Porphyrine:
Là bệnh biến dưỡng, mang tính di truyền rõ rệt.
* Dấu chứng chẩn đoán:
- Bệnh thường xuất hiện nhân cơ hội dùng 1 loại thuốc nào đó.
- Bệnh xảy đến cấp thời trong vài giờ (ít khi kéo dài nhiều ngày).
- Khởi đầu với triệu chứng tê, đau nhức cơ ở chi và thân.
- Liệt lan rộng ở tứ chi, hoặc trội hơn ở chi trên. Tổn thương dây thần kinh VII, các dây vận nhãn.
- Rối loạn cảm giác trong 50% trường hợp, thường ở gốc chi (như mặc áo tắm). Phân ly cảm giác (cảm giác sâu còn).
- Tổn thương thực vật: thường là rối loạn cơ vòng, rối loạn tim mạch, có thể diễn tiến tăng dần.
- Các rối loạn thần kinh khác: rối loạn tâm thần (40%), cơn động kinh (20%).
- Biểu hiện khác: đau bụng, da dễ nhạy cảm với ánh nắng.
- Điện cơ: tổn thương sợi trục, nhưng không ảnh hưởng đến vận tốc dẫn truyền.
- Xét nghiệm nước tiểu: trong thực hành lâm sàng, rối loạn chuyển hóa Porphyrin có thể được xác định khi để nước tiểu ngoài không khí lâu 24 giờ: nước tiểu có màu nâu đỏ.
- Có thể đo lượng Porphobilinogen/phân.
* Diễn tiến:
- Tử vong 20 - 30% do ngưng tim hoặc ngưng hô hấp.
- Nếu sống, bệnh diễn tiến 2 - 3 tuần, thời gian lui bệnh chậm, phục hồi không hoàn toàn.
* Điều trị:
- Truyền Hématine (làm ngưng tổng hợp Porphyrin).
- Điều trị triệu chứng: giảm đau, an thần, rối loạn tâm thần, động kinh, hồi sức tích cực (trong suy hô hấp và rối loạn tim mạch).
G. VIÊM ĐA DÂY THẦN KINH TRONG BỆNH BẠCH HẦU:
Ngày nay hiếm gặp nhưng dễ nhận trên lâm sàng. Thường gặp ở người lớn và trong các vụ dịch. Chỉ xảy ra trong các thể bạch hầu ác tính.
1. Lâm sàng:
a/ Thể cục bộ có tỷ lệ cao nhất, xảy ra sớm.
- Dấu hiệu đầu tiên là liệt họng (có khi triệu chứng chỉ là nói giọng mũi, nuốt sai đường vào khí quản). Khám thấy vòm hầu hạ thấp và gần như bị bất động. Phản xạ vòm hầu và thanh quản giảm. Có khi chỉ liệt ½ vòm hầu. Có khi liệt thanh quản mà không liệt vòm hầu.
- Niêm mạc vòm hầu và thanh quản trở nên tái, giảm hoặc mất hoàn toàn cảm giác.
- Liệt kéo dài thường 4 - 5 ngày (có thể lâu hơn, nhưng ít khi trở nên mạn tính).
b/ Thể lan rộng: 
Theo sau thể vòm hầu ở trên. Liệt cơ mắt (thường liệt các cơ ảnh hưởng đến chức năng điều tiết (không nhìnn gần, không nhìn vật nhỏ được). Các cơ co đồng tử vẫn bình thường. Bệnh có thể khỏi từ 8 - 10 ngày sau.
c/ Thể toàn thân:
Giai đoạn bệnh muộn, theo sau thể cục bộ.
- Yếu hoặc liệt mềm 2 chân, mất phản xạ.
- Rối loạn cảm giác nông khách quan, kèm theo rối loạn cảm giác sâu.
- Rối loạn dinh dưỡng ít.
- Phản ứng điện giảm.
- Dịch não tủy: đạm tăng (40 - 200 mg/l), tế bào tăng 10 - 20/mm3 đa số là lympho.
d/ Thể giả Tabès:
- Rối loạn cảm giác sâu, Romberg (+).
- Cảm giác nông ít bị tổn thương.
- Phản xạ gân cơ mất.
Những thể lâm sàng nêu trên đều thuộc dạng bán cấp. Tiến triển của chúng nói chung chậm nhưng dự hậu thường tốt.
e/ Thể cấp tính:
- Tiến triển nhanh, lan toàn thân. Khởi đầu liệt 2 chân, lan lên 2 tay, cơ thân, cổ, cơ hô hấp.
- Trường hợp khác giống như hội chứng Landry, diễn tiến đi lên dần. Tử vong do tổn thương hành tủy (tim đập nhanh thường xuyên, thở không đều hoặc ngất đột ngột).
2. Diễn tiến:
- Liệt vòm hầu có thể diễn biến theo 2 hướng: hoặc lành tính (chỉ khu trú tại vùng hầu) hoặc lan rộng nhanh chóng như thể cấp tính.
- Nếu liệt xảy ra trễ (30 - 70 ngày): chỉ liệt nhóm cơ vận nhãn.
- Có thể liệt diễn tiến qua 2 giai đoạn: khởi đầu liệt vòm hầu, rồi bệnh khỏi dần. Sau 20 - 30 ngày. Liệt lại lan rộng ra toàn thân.
3. Điều trị:
- Quan trọng nhất là phòng ngừa, điều trị đúng mức và kịp thời bệnh bạch hầu.
- Huyết thanh kháng bạch hầu: trẻ em 30.000 đơn vị, người lớn 60.000 đơn vị. Khi đã có triệu chứng thần kinh, vẫn tiếp tục sử dụng huyết thanh điều trị, nếu lúc khởi đầu bệnh nhân chưa được điều trị đầy đủ bằng huyết thanh.

* VIÊM NHIỀU DÂY THẦN KINH
Là bệnh viêm nhiều dây thần kinh lan tỏa, tổn thương đồng thời ở nhiều dây thần kinh cách xa nhau, tổn thương không đối xứng, không đồng bộ, biểu hiện bằng các triệu chứng đau, liệt và teo cơ. Trong giai đoạn đầu, bệnh giống như viêm một dây thần kinh. Trong quá trình tiến triển, tổn thương nhiều dây thần kinh giống như trong bệnh viêm đa dây thần kinh.
Nguyên nhân gây bệnh chính xác và cơ chế bệnh còn đang được tranh luận. Các nguyên nhân chiếm tỷ lệ hàng đầu là viêm nút quanh động mạch và các bệnh lý về mạch máu, bệnh tiểu đường, bệnh Porphyrie cấp, bệnh phong, các bệnh về nhiễm độc, nhiễm trùng. Còn lại một số khác không rõ nguyên nhân.
Về bệnh sinh, hiện có 3 cơ chế được đề cập:
- Hiện tượng thiếu máu: được đề cập đến trong các bệnh viêm nút quanh động mạch, các bệnh về mạch máu, tiểu đường, bệnh Amylose, bệnh Porphyrie.
- Hiện tượng thâm nhiễm và chèn ép dợi thần kinh: hay thấy trong bệnh phong.
- Hiện tượng rối loạn dinh dưỡng tại chỗ: xảy ra nguyên phát hoặc thứ phát sau quá trình thiếu máu và chèn ép.
- Các yếu tố tại chỗ tổn thương: phân tích được các yếu tố này rất khó.
A. LÂM SÀNG:
Bệnh cảnh chung:
- Khởi đầu đột ngột trong vài phút đến vài giờ với các triệu chứng dị cảm, đau kiểu rễ và dây thần kinh. Ít khi xuất hiện các triệu chứng của dây thần kinh sọ não. Bệnh tiến triển tăng dần.
- Triệu chứng vận động xuất hiện: giảm vận động, giảm phản xạ gân cơ.
- Rối loạn cảm giác khách quan không rõ rệt, xảy ra chậm hơn dấu vận động và khu trú ở vùng thân các dây thần kinh bị tổn thương. Các dây thần kinh thường bị tổn thương là: dây thần kinh hông khoeo ngoài bên trái, thần kinh trụ bên phải hoặc thần kinh quay.
- Để chẩn đoán, dùng phương pháp kích thích dòng điện, ghi điện cơ. Khi có tổn thương cả rễ dây thần kinh sẽ có phản ứng tăng nhẹ đạm trong dịch não tủy.
- Diễn tiến tùy thuộc vào nguyên nhân và tùy thuộc điều trị, liệt có thể khỏi hoàn toàn hoặc giảm một phần hay ngược lại bệnh nặng dần với thương tổn ngày một lan rộng hơn.
Thể lâm sàng theo nguyên nhân.
1. Viêm nhiều dây thần kinh do các bệnh của động mạch:
a. Viêm nút quanh động mạch:
- Còn gọi là bệnh Kussmaul - Maier. Những biểu hiện về thần kinh thường xuất hiện sau các triệu chứng đặc biệt của bệnh này khoảng 4 tháng (xuất hiện những hạt ngoài da, không màu sắc và khó nhận định rõ. Bệnh nhân có triệu chứng đau lan tỏa, mệt mỏi, sốt, tổng trạng kém, có triệu chứng cao huyết áp, triệu chứng về thận, khớp).
- Triệu chứng thần kinh: 2/3 trường hợp bệnh khởi đầu ở 2 chi dưới (thần kinh hông khoeo ngoài bị nhiều hơn thần kinh hông khoeo trong), ít khi có biểu hiện ở chi trên. Triệu chứng nổi bật là cơn đau rất dữ dội kèm dị cảm (ngược lại rối loạn cảm giác khách quan không rõ ràng và bị che mờ bởi dị cảm), đau lan theo dây thần kinh hoặc đau kiểu rễ. Teo cơ xảy ra nhanh chóng, kèm theo là phù dinh dưỡng, rối loạn vận mạch ở phần ngọn chi, xảy ra cùng lúc hoặc trước khi liệt. Liệt các dây thần kinh như dây thần kinh đa cánh tay trong. Các dây thần kinh sọ não ít bị tổn thương (nếu có hay gặp liệt mặt hoặc liệt thần kinh vận nhãn).
- Diễn tiến tự nhiên của bệnh phần lớn các trường hợp không khả quan. Do điều trị bằng Corticoides, triệu chứng có giảm. Ở giai đoạn này có khi mới thấy rõ tính cách liệt không đối xứng và liệt thân dây thần kinh.
- Trong viêm nút quanh động mạch, có khi biểu hiện của thể viêm đa dây thần kinh hướng lên của Landry. Các biểu hiện của viêm dây thần kinh ngoại biên có thể đi kèm với hội chứng liệt ½ người, hội chứng màng não hoặc bệnh cơ.
- Xét nghiệm dịch não tủy: bình thường hoặc đạm tăng nhẹ (nếu không có hội chứng màng não). Điện cơ cho thấy có tổn thương ở dây thần kinh ngoại biên và tại cơ. Sinh thiết da và cơ sẽ thấy tổn thương đặc hiệu của mạch máu trong bệnh viêm nút quanh động mạch.
b. Bệnh viêm động mạch có biểu hiện giống viêm nút quanh động mạch:
- Các bệnh của chất tạo keo khác: Lupus ban đỏ, viêm khớp mạn tiến triển.
- Các bệnh động mạch khác: viêm xơ động mạch, viêm động mạch ở người già.
2. Viêm nhiều dây thần kinh do biến dưỡng:
1. Bệnh tiểu đường:
Thường ở bệnh nhân 40 - 60 tuổi, mắc bệnh tiểu đường lâu năm có các biểu hiện bệnh động mạch ở 2 chi dưới. Có 3 thể lâm sàng:
- Viêm nhiều dây thần kinh tiến triển: (tổn thương thần kinh đù, thần kinh hông khoeo ngoài, thần kinh da đùi).
. Giảm vận động, teo cơ nhanh, dị cảm và đau.
. Rối loạn cảm giác khách quan ít.
. Phản xạ gót giảm nhiều hơn gối.
. Tổn thương một số dây thần kinh sọ não: III, V, VI, VII.
- Viêm đau tiệm tiến:
. Có hội chứng đau: cơn đau xảy ra từng đợt về đêm.
. Các dây thần kinh bị tổn thương: thần kinh tọa, thần kinh đùi, thần kinh da - đùi, thần kinh liên sườn, tùng thần kinh cổ - cánh tay, thần kinh V.
. Giảm cảm giác nóng lạnh. Mất phản xạ co dựng lông.
. Bệnh giảm khi bệnh tiểu đường được kiểm soát.
- Viêm các dây thần kinh sọ não, hiếm gặp.
Một trường hợp được ghi nhận là liệt vận nhãn tái đi tái lại và thay đổi bên.
2. Bệnh Porphyrie cấp:
- Tuổi mắc bệnh 20 - 40 tuổi, nữ nhiều hơn nam, có tính cách gia đình, xuất hiện có cơn bộc phát.
- Khởi đầu là dị cảm và đau. Không rối loạn cảm giác khách quan. (Có khi biểu hiện bằng triệu chứng đau bụng, bệnh cảnh có thể rất phức tạp với các biểu hiện trung ương: rối loạn tâm thần, co giật, triệu chứng tháp).
- Liệt cơ duỗi bàn tay và ngón tay. Teo cơ xảy ra nhanh. Ít khi gây liệt 2 chi dưới và không thấy tổn thương các dây sọ.
- Triệu chứng thiểu năng tuần hoàn động mạch: co thắt mạch máu võng mạc, mạch ngoại biên, có những cơn đau thắt ngực, cơn cao huyết áp.
- Tiến triển bệnh chậm.
- Tìm cách chẩn đoán bằng yếu tố gia đình và tìm thấy acide aminolevulinic và porphobilinogene tăng trong nước tiểu.
3. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh về máu và các bệnh ác tính:
Trong bệnh Vaquez do tắc mạch máu đến nuôi riêng dây thần kinh, các bệnh rối loạn hồng cầu trong máu như bệnh hồng cầu cực đại, bệnh của hệ võng nội mạc lành tính hoặc ác tính, thường có 2 bệnh cảnh:
- Liệt 2 chi dưới hoặc tứ chi. Khởi đầu với một bên, không đối xứng. Có các cơn đau rất dữ dội, rối loạn vận động, teo cơ nhiều, tổn thương các dây thần kinh sọ. Thường gặp trong bệnh bạch huyết lympho bào, trong ung thư nội tạng.
- Viêm ít dây thần kinh, liệt các dây thần kinh sọ não V, VII, thần kinh tủy sống, thần kinh quay, thần kinh trụ, thần kinh tọa, giống trong bệnh Besnier Boeck Schaumann.
4. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh nhiễm trùng:
Thường xảy ra cùng lúc hoặc sau các bệnh nhiễm trùng có làm tổn thương ở thân các dây thần kinh. Thường gặp trong bệnh thương hàn, viêm phổi, lậu, kiết lỵ, sốt rét, lao, giang mai.
Các nguyên nhân tán trợ của bệnh: rối loạn dinh dưỡng, uống rượu, ngộ độc thuốc (INH), Zona, phong.
5. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh do nhiễm độc:
1. Oxyde carbon:
Tổn thương của nhiều dây thần kinh, có khi biểu hiện giống viêm đa dây thần kinh. Tổn thương được ghi nhận nơi các mạch máu nuôi thần kinh và có hiện tượng xuất huyết nơi thân dây thần kinh.
2. Barbiturates và Sulfamides: ít khi gặp.
3. Các loại huyết thanh:
Viêm thần kinh cánh tay, thần kinh đùi, thần kinh hông khoeo ngoài, thần kinh cơ hoành, thần kinh trụ trái.
B. ĐIỀU TRỊ:
Việc điều trị tùy theo nguyên nhân.
- Corticoides, các thuốc chống dị ứng, Nivaquine cho viêm nút quanh động mạch.
- Sulfones trong điều trị phong.
- Điều trị đúng mức bệnh tiểu đường.
- Điều trị với thuốc kháng viêm thông thường, sinh tố nhóm B, thuốc giảm đau, chỉnh hình để phòng ngừa các biến chứng của chi. Giá trị của thuốc giãm mạch còn chưa rõ.
* VIÊM ĐA RỄ DÂY THẦN KINH
Viêm đa rễ dây thần kinh (polyradiculonévrites) là danh từ chỉ bệnh lý tổn thương bao myelin của thần kinh ngoại biên. Bệnh có tính chất lan tỏa, đối xứng, không trừ những thành phần gần của thần kinh ngoại biên (rễ trước, tùng thần kinh - đây là vùng hay bị tổn thương nhất) cũng như dây thần kinh sọ não.
Nguyên nhân của Viêm đa rễ dây thần kinh có rất nhiều. Có 2 thể lâm sàng chính: cấp (Hội chứng Guillaine - Barré do Guillain G. và cộng sự giới thiệu đầu tiên năm 1916) và mạn.
A- VIÊM ĐA RỄ DÂY THẦN KINH CẤP.
1. Dịch tễ học:
- Tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là 1/100.000
- Tuổi hay gặp là 20 - 50 tuổi.
- Xuất hiện ở hai phái ngang nhau.
2. Bệnh căn:
Chưa rõ ràng. Người ta ghi nhận được trong 2/3 trường hợp, khoảng 1 - 4 tuần trước khi hội chứng bệnh này xuất hiện, bệnh nhân có 1 giai đoạn nhiễm siêu vi đường hô hấp trên, hiếm hơn là 1 hội chứng tiêu hóa. Những nghiên cứu đã phát hiện những trường hợp nhiễm trùng Cytomegalovirus và nhất là Campylobacter Jejuni. Hiếm khi thấy xuất hiện hội chứng Guillaine - Barré trên những bệnh nhân nhiễm siêu vi mà không xác định được như Zona, varicelle, MNI (Epstein Barr) hay bệnh Hodgkin, lymphoma, LED, sarcoidose hay những người nhiễm HIV.
3. Lâm sàng:
Hình ảnh lâm sàng nổi bật của Hội chứng Guillaine - Barré là tình trạng liệt mềm cấp, mất các phản xạ. Diễn tiến bệnh gồm 3 thời kỳ: thời kỳ liệt phát triển, thời kỳ đứng yên và thời kỳ phục hồi. Thời kỳ phát triển của liệt không kéo dài quá 4 tuần. Thời kỳ đứng yên rất thay đổi, nhìn chung từ 2 - 4 tuần nhưng đôi khi kéo dài nhiều tháng. Việc phục hồi, trong phần lớn trường hợp, thường khỏi hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn.
- Triệu chứng khởi phát có thể: chỉ là dị cảm hoặc rối loạn cảm giác kết hợp với yếu liệt hoặc chỉ có yếu liệt cơ. Ít hơn, có thể thấy bệnh khởi phát với liệt đầu tiên ở gốc chi hoặc ở thần kinh sọ não, đặc biệt là liệt mặt 2 bên.
- Liệt:
. Dù do khởi phát cách nào thì chỉ sau vài ngày, liệt cũng trở nên rõ ràng. Liệt có tính chất đối xứng, đầu tiên liệt ở phần xa của chi, sau đó lan nhanh đến các gốc chi và thân (có khuynh hướng liệt hướng lên).
. Có mức độ nặng nhẹ rất thay đổi: từ chỉ liệt nhẹ đến liệt tứ chi hoàn toàn. Đặc tính nổi bật là liệt mềm, giảm hoặc mất phản xạ gân cơ.
. Đau nhức cơ, đặc biệt là cơ dọc sống lưng, rất thường thấy và kết hợp với tình trạng tăng men cơ trong máu.
. Liệt đồng đều ở các phần của tay chân, hoặc ở ngọn chi nặng hơn gốc chi. (nếu liệt ở gốc chi nặng hơn thì gọi là thể giả bệnh cơ). Liệt 2 chi trên thường nhẹ và xảy ra sau 2 chi dưới.
. Liệt cơ ở thân, liệt cơ bụng, các cơ hô hấp dẫn đến tình trạng suy hô hấp cấp, đòi hỏi người thầy thuốc phải chú ý khám đi khám lại nhiều lần để phát hiện sớm và chuyển ngay bệnh nhân sang hồi sức cấp cứu (tình trạng này chiếm 15%).
. Liệt các dây thần kinh sọ não.
Liệt dây VII (50 - 69%) thường liệt cả 2 bên.
Liệt dây IX, X xuất hiện với tỷ lệ gần tương đương như liệt dây VII gây liệt hầu họng, liệt dây thanh âm một bên hoặc hai bên.
Các dây thần kinh sọ não khác ít bị tổn thương hơn.
- Rối loạn cảm giác:
. Chủ quan: rất rõ. Bệnh nhân than tê, có cảm giác như bị châm chích, kiến bò.
. Khách quan: thường phát hiện giảm cảm giác nhận biết tư thế và rung âm thoa. Trong vài trường hợp dẫn đến thất điều.
- Rối loạn thực vật:
. Rất thường xuyên, từ nhịp nhanh xoang đến rối loạn nhịp tim và huyết áp trầm trọng, làm tăng nguy cơ tử vong.
. Rối loạn cơ tròn như bí tiểu, giảm hoặc mất cảm giác đi tiểu. Bón thường xảy ra hơn.
. Rối loạn vận mạch và giao cảm: ra nhiều mồ hôi, da tái, phù nề chi bị liệt.
Trong một vài trường hợp hiếm, người ta ghi nhận được Babinski (+), phù gai thị và có khi lú lẫn tinh thần.
Thể lâm sàng hiếm (thể Miller Fisher) được báo cáo năm 1956, đây là thể lâm sàng hiếm gặp (< 4%). Bệnh cảnh gồm liệt cơ vận nhãn, thất điều và mất phản xạ gân cơ.
4. Cận lâm sàng:
- Dịch não tủy: là xét nghiệm quan trọng. Rối loạn của xét nghiệm này chỉ xuất hiện sau 1 tuần (đôi khi rất trễ khoảng tuần thứ 4 - 6) và có thể (-) ở 10% các trường hợp. Kết quả quan trọng để chẩn đoán là phân ly đạm - tế bào. Đạm # 50 mg% hoặc cao hơn trong khi các thành phần khác của dịch não tủy không thay đổi.
- Điện cơ: giúp xác định bao myelin bị hư hoại khi có dấu bất thường trong dẫn truyền xung động thần kinh như kéo dài thời gian tiềm ẩn, giảm tốc độ dẫn truyền … Cũng có thể thấy dấu hiệu của thoái hóa sợi trục (thứ phát sau thoái hóa myelin).
5. Diễn tiến:
Nhờ vào những tiến bộ trong trị liệu mà tỷ lệ tử vong của hội chứng Guillaine - Barré đã giảm đáng kể tử 33% xuống dưới 5%. Phần lớn các bệnh nhân đã phục hồi hoàn toàn và trở lại làm việc bình thường sau 3 - 6 tháng. Có 1/5 trường hợp còn than phiền yếu cơ sau 1 năm. Có thể nói rằng: sau 18 tháng mà di chứng vẫn còn thì rất ít có hy vọng hồi phục. Có khoảng 15% trường hợp vẫn còn di chứng và 5% là di chứng nặng nề.
Các yếu tố làm tiên lượng trở nên xấu:
- Bệnh nhân trên 40 tuổi.
- Thời gian liệt phát triển: nhanh, dưới 7 ngày.
- Bệnh nhân cần giúp thở.
- Thời gian liệt đứng yên > 3 tuần.
- Phản ứng cơ với kích thích ở ngọn chi: yếu (Mc Khann G.M. và cộng sự 1988).
Tình trạng tái phát rất hiếm (3%) và đòi hỏi phải tìm cho ra nguyên nhân).
6. Chẩn đoán phân biệt:
- Viêm đa rễ dây thần kinh do giang mai và bệnh Lyme: chủ yếu dựa vào tính chất không đối xứng và có đau. Và trong dịch não tủy có tăng tế bào. Cần làm xét nghiệm chẩn đoán giang mai (VDRL …) hoặc phản ứng huyết thanh xác định có Borrelia burgdorferi.
- Viêm đa rễ dây thần kinh nhiễm xoắn khuẩn Leptospira iderohemorragiae: Dấu viêm đa rễ dây thần kinh có thể xuất hiện sớm trong thời kỳ cấp của bệnh nhưng cũng có khi xuất hiện trễ trong thời kỳ hồi phục của bệnh. Dấu lâm sàng có thể là tổn thương một sợi thần kinh (thường là thần kinh sọ não), rễ thần kinh hoặc tùng thần kinh. Dấu hiệu viêm đa dây thần kinh thường trầm trọng. Chẩn đoán xác định bằng điện cơ (dấu tổn thương sợi trục) và sinh thiết (thâm nhiễm các monocytes).
- Viêm đa rễ dây thần kinh do Brucella: Thường xuất hiện trễ hơn là sớm. Bệnh cảnh có thể là viêm đa rễ dây thần kinh có tính chất không đối xứng hoặc tổn thương thần kinh sọ não (VIII. VI, VII, XI) hoặc tổn thương một sợi thần kinh. Dịch não tủy có tăng đạm và tế bào (chủ yếu là lympho). Phản ứng huyết thanh Wright (+).
- Viêm đa rễ dây thần kinh do bạch hầu: Thường thì bệnh này gây liệt vòm hầu (nói giọng mũi, sặc thức ăn lên mũi). Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh này trong trường hợp có biến chứng trễ của bệnh nhi khi 2 - 3 tháng sau thấy xuất hiện dấu viêm đa rễ dây thần kinh. Bệnh thường khởi phát với liệt điều tiết của mắt (gây khó khăn khi đọc và khi nhìn gần). Dịch não tủy thấy xuất hiện nhiều tế bào lymphô.
7. Điều trị:
- Phòng ngừa các biến chứng do nằm lâu: nhiễm trùng hô hấp, suy hô hấp cấp.
- Thay huyết tương. Nghiên cứu hợp tác năm 1987 của Pháp và Mỹ đã chứng minh việc thay huyết thanh 4 lần đã cho kết quả đáng tin cậy (67% so với 44% ở lô chứng). Nghiên cứu này cũng khuyên thay huyết tương nên khởi đầu 15 ngày sau khi bệnh khởi phát.
- Dùng liều cao Immunoglobulines: đang nghiên cứu.
B- VIÊM ĐA RỄ DÂY THẦN KINH MẠN.
Quan niệm về bệnh lý này bao gồm những trường hợp viêm đa rễ dây thần kinh hoặc tái phát, hoặc kéo dài hoặc không đáp ứng với Corticoides. Năm 1975 Dick P.J. và cộng sự đã định nghĩa bệnh và năm 1991 những tiêu chuẩn chẩn đoán đã được thiết lập như sau:
Tiêu chuẩn lâm sàng:
- Có 1/3 trường hợp có bệnh khởi phát như hội chứng Guillaine - Barré (khởi phát với liệt có kèm hoặc không rối loạn cảm giác tứ chi, đối xứng).
- Liệt chủ yếu ở các tiết đoạn gốc chi và rối loạn cảm giác chủ yếu là bản thể (nhận biết tư thế, cảm giác rung).
- Mất phản xạ gân cơ một phần hay toàn thân.
- Tổn thương dây thần kinh sọ não.
- Suy hô hấp có thể có nhưng ít hơn thể cấp.
- Rối loạn thực vật, teo cơ, đau nhức ít gặp hơn.
Tiêu chuẩn diễn tiến: 
Tiến triển kéo dài trên 6 tháng với những đợt tái phát, mắc lại hoặc không đáp ứng với trị liệu Steroides.
Tiêu chuẩn sinh hóa: 
80% có phân ly đạm tế bào.
Tiêu chuẩn điện cơ: 
Tốc độ dẫn truyền thần kinh giảm, 70% với tổn thương thoái hóa myelin. Những dấu chứng của blốc dẫn truyền thường xuất hiện nhiều hơn trong thể cấp.
Tiêu chuẩn sinh thiết: 
Thoái hóa myelin và tẩm nhuận tế bào viêm.
Điều trị:
Tốt với Corticoides, ức chế miễn dịch, thay huyết tương và truyền immunoglobulines tỏ ra có hiệu quả 60 - 80%.
III. BỆNH LÝ TỔN THƯƠNG THẦN KINH NGOẠI BIÊN THEO YHCT:
A. NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH:
“Bệnh lý thần kinh ngoại biên” là danh từ bệnh học YHHĐ và không có từ đồng nghĩa trong bệnh học YHCT. Từ đồng nghĩa dễ gặp giữa YHHĐ và YHCT là các triệu chứng, ví dụ: “dị cảm”, “tê” với “ma mộc”, “yếu liệt” với “nuy chứng”.
Qua việc phân tích cơ chế bệnh sinh toàn bộ các chứng trạng thường gặp của YHCT trong bệnh lý tổn thương thần kinh ngoại biên, có thể biện luận về cơ chế bệnh sinh theo YHCT như sau:
Nguyên nhân và cơ chế bệnh theo YHCT:
- Do ngoại tà như phong, hàn, thấp gây bệnh. Phong, hàn, thấp thừa cơ vệ biểu suy yếu mà xâm nhập làm kinh lạc bị tắc trở sinh ra chứng tê. Tùy theo tính chất của tê mà định được loại tà khí gây bệnh (Phong tính hay động, lưu ở bì phu nên tê có cảm giác như trùng bò; Thấp có tính nặng nề và ảnh hưởng đến phần cơ; Hàn tính nê trệ và dễ tổn thương dương khí).
- Do bệnh lâu ngày, ẩm thực bất điều hoặc phòng thất không điều độ làm thể chất suy yếu, khí bị hư suy. Khí hư dẫn đến vệ ngoại bất cố, phong hàn thấp tà dễ xâm nhập. Đồng thời, khí hư dẫn đến khí trệ làm huyết không được vận hành. Toàn bộ cơ chế trên dẫn đến kinh mạch bị rỗng, da cơ không được ôn ấm và nuôi dưỡng làm xuất hiện triệu chứng tê.
- Do huyết dịch không đầy đủ (sau sinh, thiếu máu hoặc bệnh lâu ngày). Tân và huyết có tác dụng tư nhuận và nhu dưỡng cơ da. Tân và huyết thiếu khiến kinh lạc, cơ, biểu, bì mao không được nuôi dưỡng, gây nên chứng tê, nặng sẽ đến chứng nhục nuy.
- Do đàm uất ủng trệ gây tắc trở kinh lạc. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại Tỳ Vị hoặc do Thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.
Sơ đồ bệnh lý tổn thương thần kinh ngoại biên theo YHCT
http://img208.imageshack.us/img208/4...aythankinh.jpg 
B. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
YHCT chia thành 6 thể lâm sàng: 
1. Thể Phong hàn thấp bế:
- Đặc điểm nổi bật của thể bệnh này là tê và đau nhức cơ tăng khi trời lạnh, ẩm thấp. Bệnh nhân thường thích được chườm ấm tại chỗ tê, đau. 
- Người sợ lạnh, tay chân lạnh. Lưng gối mỏi.
- Rêu lưỡi mỏng, trắng hoặc trắng nhớt. Chất lưỡi nhạt.
- Mạch phù, huyền khẩn.
2. Thể Thấp nhiệt bế:
- Triệu chứng tê thường xuất hiện ở chân. Người thấy nặng nề, kèm đau hoặc có cảm giác rất nóng. Sờ bên ngoài da thấy nóng.
- Lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt.
- Mạch huyền sác hoặc tế sác.
3. Thể Khí hư thất vận:
- Tê tứ chi, nhiều ở đầu chi. Nhấc chi lên khó khăn, mất lực. Tình trạng này sẽ tăng lên khi gặp lạnh (trời lạnh, nhúng tay chân vào nước lạnh) hoặc làm việc.
- Sắc mặt nhợt, không bóng. Thiếu hơi, đoản khí. Mệt mỏi, thích nằm.
- Sợ gió, sợ lạnh. Ăn kém, cầu nhão. Dễ bị cảm.
- Lưỡi nhạt bệu, rìa có dấu răng, rêu trắng mỏng.
- Mạch trầm nhu.
4. Thể Huyết hư thất vinh:
- Chân tay tê. Da trắng khô. Người gầy yếu.
- Mặt môi nhợt, kèm chóng mặt, hoa mắt. Mất ngủ, hay quên.
- Tâm quý, chính xung.
- Chất lưỡi nhạt. Mạch trầm tế.
5. Thể Âm hư phong động:
- Tê nhiều kèm run nhẹ. Có lúc có cảm giác như trùng bò.
- Người gầy khô, kèm hoa mắt, chóng mặt, ù tai.
- Mất ngủ, hay mộng mị. Lưng gối nhức mỏi.
- Chất lưỡi đỏ tối, rêu mỏng. Mạch trầm tế.
6. Thể Đàm uất trệ:
- Tê kéo dài, vị trí tê cố định. Có cảm giác căng, ấn vào thấy dễ chịu.
- Chất lưỡi tối hoặc có vết bầm, rêu nhớt.
- Mạch trầm sáp hoặc huyền hoạt.
C. ĐIỀU TRỊ THEO YHCT: 
* ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC.
1. Thể Phong hàn thấp bế:
- Phép trị: Khu phong, tán hàn. Sơ thấp trục tà, ôn kinh thông lạc.
- Bài thuốc điều trị: Quyên bế thang + Quế chi thang gồm Khương hoạt 8g, Độc hoạt 8g, Tần cửu 10g, Quế chi 8g, Bạch thược 6g, Đương quy 12g, Sinh thảo 6g, Tang chi 8g, Xuyên ô (chế)6g, Hải phong đằng 10g, Kê huyết đằng 10g, Xuyên khung 8g.
Vị thuốc
Dược lý YHCT
Vai trò
Khương hoạt
Ngọt, đắng, bình, không độc
Trừ phong, chữa tê đau ở chi trên
Quân
Độc hoạt
Ngọt, đắng, bình, không độc
Trừ phong, chữa tê đau ở chi dưới
Quân
Tần cửu
Đắng, cay, bình. Hoạt huyết, trấn thống
Quế chi
Cay ngọt, đại nhiệt, hơi độc
Trị cố lãnh trầm hàn, giải biểu.
Quân
Bạch thược
Chua đắng, hơi hàn.
Nhuận gan, dưỡng huyết, liễm âm.
Thần
Đương quy
Ngọt, cay, ấm. Bổ huyết, hành huyết.
Thần
Xuyên khung
Đắng, ấm
Hành khí, hoạt huyết, khu phong, chỉ thống.
Tang chi
Đắng, bình. Khử phong thấp, lợi quan tiết. Chữa tê, đau nhức.
Xuyên ô (chế)
Cay, ngọt, tính đại nhiệt, có độc.
Bổ hỏa, trục phong hàn, thấp tà.
Thần
Nhũ hương
Đắng, cay, hơi ấm. Điều khí, hoạt huyết.
Kê huyết đằng
Đắng, bình. Khu phong, thông kinh lạc.
Sinh thảo
Ngọt, bình. Bổ Tỳ Vị, nhuận phế, thanh nhiệt, giải độc. Điều hòa các vị thuốc.
Sứ
2- Thể Thấp nhiệt bế:
- Phép trị: Thanh lợi thấp nhiệt. Sơ kinh thông lạc.
- Bài thuốc điều trị: Tam diệu hoàn gia giảm gồm Thương truật 10g, Hoàng bá 6g, Sinh thảo 10g, Phòng kỷ 10g, Địa long 6g, Khương hoàng 9g, Hải phong đằng 10g, Kê huyết đằng 10g, Ngưu tất 10g, Nhũ hương 6g.
Vị thuốc
Dược lý YHCT
Vai trò
Thương truật
Cay, đắng, ấm vào Tỳ Vị.
Kiện Tỳ, táo thấp, phát hãn.
Quân
Hoàng bá
Đắng, hàn, vào Thận, Bàng quang
Trừ hỏa độc, tư âm, thanh nhiệt, táo thấp.
Quân
Ngưu tất
Chua, đắng, bình. Bổ Can thận, tính đi xuống
Phòng kỷ
Rất đắng, cay, lạnh. Khử phong, hành thủy, tả hạ. Tiêu huyết phận, thấp nhiệt.
Thần
Địa long
Mặn, hàn.
Thanh nhiệt, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc
Quân
Khương hoàng
Cay, đắng, ôn vào Tỳ Can
Hành huyết, phá ứ, hành khí giải uất
Nhũ hương
Đắng, cay, hơi ấm. Điều khí, hoạt huyết.
Kê huyết đằng
Đắng, bình. Khử phong, thông kinh lạc
Sinh thảo
Ngọt, bình. Bổ Tỳ Vị, nhuận phế, thanh nhiệt giải độc. Điều hòa các vị thuốc.
Sứ
3- Thể Khí hư :
- Phép trị: Bổ khí trợ vận. Hoạt huyết vinh chi.
- Bài thuốc điều trị: Bổ trung ích khí thang gia giảm gồm Huỳnh kỳ 30g, Đảng sâm 15g, Bạch truật 10g, Đương quy 10g, Trần bì 8g, Thăng ma 8g, Quế chi 8g, Kê huyết đằng 12g.
4- Thể Huyết hư :
- Phép trị: Dưỡng huyết, hoạt huyết. Xung mạch nhuận chi.
- Bài thuốc điều trị: Tứ vật thang gia Đan sâm gồm Thục địa 20 - 24g, Bạch thược 12g, Đương quy 12g, Xuyên khung 6g, Đan sâm 12g.
Có thể tham khảo bài “Thần ứng dưỡng chân đơn” gồm Thục địa 10g, Đương quy 10g, Xuyên khung 8g, Đan sâm 12g, Hoàng tinh 10g, Hoàng kỳ 20g, Quế chi 8g, Bạch thược 8g, Kê huyết đằng 12g, Tần cửu 10g, Tang chi 10g, Mộc qua 8g, Ngưu tất 8g.
5- Thể Âm hư phong động:
- Phép trị: Tư âm, dưỡng huyết, hoạt huyết.
- Bài thuốc điều trị: Thiên ma câu đằng ẩm gia Đương quy 10g, Xuyên khung 8g.
6- Thể Đàm uất trệ:
- Phép trị: Hóa đàm, lợi uất. Hoạt huyết, thông lạc.
- Bài thuốc điều trị: Song hợp thang gia giảm. Đây là hợp của 2 bài thuốc Đào hồng tứ vật thangvà bài Nhị trần thang gồm Trần bỉ 6g, Bán hạ 6g, Phục linh 12g, Hương phụ 6g gia thêm Tế tân 4g (ôn thông để trị ứ trệ), Địa long 6g, Ngưu tất 10g (dẫn kinh thông mạch), Sinh thảo 10g.
D- ĐIỀU TRỊ BẰNG CHÂM CỨU:
Chủ yếu là sử dụng những huyệt tại chỗ ở chi trên và chi dưới để sơ thông kinh lạc.
- Chi trên: Hợp cốc, Khúc trì, Kiên ngung, Kiên tĩnh, Ngoại quan, Thái uyên, Xích trạch.
- Chi dưới: Phong thị, Dương lăng, Côn lôn, Huyền chung, Túc tam lý, Tam âm giao.
                                              Theo LYND Lâm Tuệ Phương